Các món ăn đặc sản của núi rừng Minh Hóa
Minh Hóa là một huyện nổi tiếng có cảnh quan thiên nhiên núi rừng hùng vĩ nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Bình. Nơi đây không chỉ có cảnh đẹp mà còn có nét văn hóa truyền thống đặc sắc. Là vùng đất sinh sống, giao thoa văn hóa của đồng bào các dân tộc như Kinh, Chứt, Bru Vân Kiều… Độc đáo nhất là người Rục ở Thượng Hóa được xem là một trong 10 tộc người bí ẩn nhất thể giới; người Mày, người Khùa ở xã Dân Hóa, Trọng Hóa với những đặc trưng văn hóa riêng có, đủ sức lôi cuốn du khách, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài. Ẩm thực ở Minh Hóa cũng đa dạng, có nhiều món ngon, như: bồi, ốc đực, cá mát, mật ong rừng, rượu đoác, rau tớn…
Nếu bạn có dự định đi du lịch Quảng Bình thì đừng quên đến thăm mảnh đất Minh Hóa để khám phá phong cảnh thiên nhiên và thưởng thức các món ăn đặc sản nơi đây. Tùy theo kinh phí để lựa chọn phương tiện cho mình, tiết kiệm nhất là thuê xe máy, có điều kiện hơn thì thuê chiếc ô tô 4 chỗ, nhiều người thì thuê xe 7 chỗ vừa kết hợp tham quan và ăn uống. Bạn có thể thưởng thức các món ăn địa phương tại chợ thị trấn Quy Đạt. Đặc biệt có Lễ Hội Rằm Tháng Ba được tổ chức vào ngày rằm tháng 3 âm lịch hằng năm là thời điểm lý tưởng để bạn đi.
Cơm bồi
Trong các món ăn đặc sản Minh Hóa thì món cơm bồi dẻo, thơm ngon độc đáo mà không nơi nào có được là nổi tiếng nhất. Ai lên Minh Hóa mà chưa thưởng thức cơm bồi thì coi như chưa đến miền sơn cước này.
Nguyên liệu dùng để chế biến cơm bồi là hạt ngô, hạt gạo và có thêm cả củ sắn tươi. Ngô hạt được ngâm vào nước sôi khoảng 2-3 tiếng rồi vớt ra để ráo, bỏ vào cối giã, dần lấy bột, thấm nước lã, nhồi kỹ, đánh tơi ra, bỏ vào nghè hông (chõ đồ). Đổ nước vào nồi, lấy lá chuối khô vấn quanh miệng, bỏ chõ đồ có bột ngô lên, bắc lên bếp đun lửa khoảng một giờ đồng hồ là cơm bồi chín, đưa xuống bỏ vào khuôn đóng thành miếng cơm bồi để mang đi xa ăn; còn nếu ăn ngay thì đổ ra rá.
Đối với món cơm bồi được làm từ gạo, thì vo gạo với nước nóng, còn các công đoạn khác cũng giống làm với bột ngô. Nếu có thêm sắn củ thì đưa sắn tươi vừa mới đào về rửa sạch, bóc vỏ, ép bớt nước, trộn với bột ngô, bột gạo, nhồi kỹ, rồi cho vào chõ đồ chín thành món cơm bồi.
Món bồi được người Minh Hóa dùng ăn với món ốc đực bắt ở suối và cà lào ở rừng, khoai lang nấu canh đã trở thành món ăn và tập quán ẩm thực đặc sắc của người Nguồn Minh Hóa.
Ốc đực
Ốc đực ở Minh Hóa rất nhiều và thường sống ở các khe suối có nước trong, sạch. Con ốc đực là món quen thuộc với vùng quê này và nó đã đi vào thơ ca, nhạc họa.
Ốc đực có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, nhưng món phổ biến nhất là ốc luộc. Ốc đực luộc chín lên chấm với muối lá chanh, muối ớt, khều bởi gai bưởi ăn rất thơm ngon. Nước luộc ốc có thể nấu canh rau khoai hay các món canh chua khác ăn rất đậm đà, bắt miệng trong mùa nắng nóng. Ngoài ra, ốc đực còn được chế biến thành món ốc chiên, nước ốc chấm với bánh tráng (bánh đa) khiến thực khách ăn một lần sẽ nhớ mãi…
Rau dớn
Rau dớn là loài dương xỉ mọc hoang dại, ở trong rừng rau dớn thường mọc ở khe suối, bên những tảng đá. Rau dớn vừa là một loại rau rừng đặc biệt được nhiều người ưa thích; vừa là một loại thảo mộc dùng để chữa một số bệnh phổ biến như cảm, ho, viêm họng, lợi tiểu, chống táo bón… Rau dớn làm được nhiều món: luộc, nấu canh, xào thịt, xào tỏi, làm nộm… mà món nào cũng ngon.
Với người dân Minh Hóa, rau dớn gắn liền với câu chuyện đầy chất nhân văn của người dân nơi đây, nó là món chính trong mâm cơm “giỗ sống”, mâm cơm hiếu nghĩa mà người dân Minh Hóa dâng lên ông bà, cha mẹ ngày cận Tết.
Cháo môn
Theo những bậc cao niên ở Minh Hóa, cháo môn ban đầu là của người Mã Liềng, một tộc người thuộc nhóm dân tộc Chứt ở vùng núi huyện Tuyên Hóa và Minh Hóa. Sau đó, đồng bào các dân tộc ở huyện miền núi Minh Hóa cũng học được và trở thành món ăn đặc sản, độc đáo ở vùng núi rẻo cao này.
Nguyên liệu để chế biến món cháo môn gồm: thịt hong gác bếp không quá khô, một số loại lá rừng, một ít gạo và tất nhiên là phải có tàu môn rừng. Tất cả những thứ nguyên liệu ấy được ninh nhừ, sền sệt nước là vừa ăn. Người dân Minh Hóa kể rằng, món cháo môn xưa là của người nghèo dùng để đãi bạn bè đến chơi. Xứ nghèo chả có gì, người dân vào rừng lấy những cây lá bản địa, trong đó thân môn rừng là chủ đạo, cùng với một ít cơm nguội, thêm chút măng tươi và một ít thịt khô ngày thường săn được đổ lộn vào ninh nhừ với nhau. Chủ nhà tưởng như thế sẽ không ngon, nhưng khách ăn thì khen lấy khen để. Cũng từ đó mà món cháo môn trở thành món ăn không chỉ để ăn hàng ngày mà người dân Minh Hóa dùng để đãi khách quý đến chơi. Ngày nay, món này còn được nhiều quán ăn, nhà hàng chế biến thành một món đặc sản để bán cho du khách gần xa…
Nhộng ong
Với địa hình của Minh Hóa chủ yếu là núi rừng nên có nhiều loại ong rừng làm tổ. Trong đó có 3 loại ong, người dân Minh Hóa không phải săn để lấy mật mà lấy nhộng là ong bầu, ong chành và ong vò vẽ.
Nhộng ong rừng là một trong những món ăn được lấy nguyên liệu rất khó và quý hiếm nhưng cách chế biến món nhộng ong của người dân Minh Hoá khá đơn giản. Khi nước sôi, cho ong vào nồi, và lửa nhỏ, sau khi thả ong vào chỉ cần sôi nhẹ lại là được kẻo nhộng chín quá dễ nát. Ăn nhộng ong phải nhớ kèm nước quả quất, lá lốt và muối hạt trộn ớt, tiêu làn khói bay lên mang theo mùi nhộng ong hấp dẫn. Cái cảm giác lúc thịt con nhộng tan ra ngọt trong miệng thật khó tả. Vị ong rất ngon, béo ngậy nên dù chỉ được một lần nếm thử món đặc sản này, thực khách sẽ nhớ mãi.
Canh trứng kiến nấu lá bún
Canh kiến được chế biến từ trứng của loài kiến đen, kiến vàng làm tổ trên những cây cao đây là món ăn độc đáo chỉ có ở Minh Hóa vào mùa xuân. Người dân Minh Hóa săn về đãi sạch và nấu với lá cây bún mọc trong rừng. Bún là loại cây hoang dại chỉ mọc ở các bờ suối, có thân gỗ, lá hình đối xứng. Loài cây này cũng chỉ ra lá non vào khoảng từ tháng 2 đến tháng 3 âm lịch. Tuy nhiên để có món canh kiến nấu bún chua, phải có một công đoạn hết sức công phu là ủ chua lá bún. Lá bún non được thái sợi mịn rồi bỏ vào chum sành, thêm ít muối hạt, đường mơ, đổ thêm nước ấm khoảng 15 độ C vào và đậy kín lại, sau đó đặt cạnh bếp lửa chừng 3 ngày. Khi chum lá bún vần quanh bếp đã chuyển từ màu xanh sang màu vàng mơ và dậy mùi thơm thì lấy ra nấu với trứng kiến vừa đánh về.
Để có nồi canh trứng kiến nấu bún giòn ngon, người dân Minh Hóa không dùng dầu mỡ như ở dưới xuôi mà chỉ sử dụng những gia vị truyền thống dễ kiếm tìm được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với vị béo ngậy của trứng kiến, vị chua thanh của bún tạo nên một món canh chua ngon, độc đáo và riêng có của người Minh Hóa.
Ăn trứng kiến phải thật thư thả, thong dong. Người ăn cứ nhấm nháp nó từng chút một mới thấm thía cái ngon, cái hồn của hương vị quê nhà như đọng cả vào đây. Mang theo sự độc đáo của nghề “săn” kiến, món trứng kiến nấu lá bún đem đến cho thực khách cảm giác khó quên khi cùng hòa nhịp với rừng đại ngàn, với thiên nhiên bao đời ở Minh Hóa. Ngày nay, món trứng kiến nấu lá bún không chỉ là món ăn thường ngày của người Minh Hóa mà còn trở thành đặc sản níu giữ chân du khách thập phương vào dịp lễ hội Rằm tháng ba hàng năm. Cùng với những làn điệu của hò thuốc, đúm ví giao duyên, hát nhà trò thì nghề “săn” kiến chế biến món ăn đã trở thành bản sắc văn hóa ẩm thực riêng biệt của người Nguồn Minh Hóa.
Cá Mát nướng
Cá mát nướng của người Khùa là món ngon đến từ khe suối của vùng đất Minh Hóa. Cá mát thường sống thành bầy đàn trong các khe suối nhất là những vực nước sạch sẽ. Cá Mát vừa lành, vừa bổ, thịt lại thơm ngon, mỡ béo ít xương. Được biết, loài cá này còn có tác dụng lợi sữa, tốt cho tim mạch và thích hợp với cả người già lẫn người béo phì.
Cá Mát có thể kho, rán, nấu canh chua… nhưng ngon nhất vẫn là nướng. Chỉ cần ăn một lần, thực khách sẽ nhớ mãi không quên hương vị thơm ngon của loại cá này.
Cua đá
Cua đá người dân địa phương còn gọi là Khé sinh sống ở trong các khe suối núi đá. Vào mùa hè, thường là vào lúc chiều nhá nhem tối cho đến hết đêm, cua bắt đầu bò từ núi đá ra các khe suối. Khi đó, bà con rủ nhau đi bắt cua bằng tay. Ban ngày, cua lại chui vào hang trong các khe núi, nên nếu muốn bắt được cua thì phải có cần và mồi bằng giun đưa vào hang để dụ cua cặp vào mồi rồi kéo ra. Cua suối có kích thước tương đối to, mỗi ki-lô-gam được từ 7-10 con.
Sau khi bắt được cua mang về, bà con dân tộc thường chế biến, không cầu kỳ và không cần nhiều gia vị thường đem hấp, luộc, nướng với sả hay nấu canh với lá sắn rừng. Cua suối khi nấu chín có màu vàng hồng xen lẫn màu cánh gián, có mùi thơm đặc trưng. Cua được bày lên đĩa ăn nóng chấm với muối trắng kèm theo ớt. Không chỉ đẹp mắt mà khi ăn cua rất chắc thịt và mang vị đậm đà.
Tằm lá sắn
Con tằm ăn lá sắn là đặc sản ở huyện miền núi Minh Hóa. Thoạt nhìn tằm sắn sẽ gây ra cảm giác “kinh sợ” vì con to chẳng khác gì 1 loài sâu khổng lồ nhưng khi được thưởng thức thực khách sẽ thấy đây là 1 món vừa ăn sạch vừa bổ dưỡng. Tùy theo khẩu vị từng người, tằm sắn có thể chế biến theo nhiều món như rang, xào…Cần lưu ý, trước khi chế biến cần cho tằm vào nước nóng để tằm săn lại.
Con tằm có giá trị dinh dưỡng cao, lại được nuôi bằng lá sắn, là một loại thực phẩm sạch, nên rất được khách hàng, không chỉ ở Minh Hóa mà các nơi đều rất ưa chuộng, tìm mua.
Cơm lam
Đồng bào dân tộc vùng núi Minh Hóa, có nhiều món ăn dân gian độc đáo, trong đó có cơm nướng trong ống lồ ô được họ chế biến, phục vụ các lễ hội truyền thống và trong bữa ăn hằng ngày. Ống lồ ô dùng để nấu cơm lam là các loại ống nhỏ, không quá non cũng không quá già. Trước khi nấu cơm lam, người dân thường ngâm cho gạo mềm và sau đó cho vào từng ống một, làm nút đậy thật chặt và đặt trên bếp lửa đang cháy to. Ngồi bên bếp lửa, cầm ống nứa trở qua trở lại thì ống nứa bắt đầu sôi lên và chín dần. Sức nóng của lửa làm cho hơi nước sôi lên tỏa mùi thơm ngát, đồng nghĩa cơm lam nướng đã chín.