Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh

Hãy cùng tham khảo bài Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh.

Phan Châu Trinh là nhà yêu nước lớn, sớm có tinh thần dân chủ ở nước ta. Hoạt động yêu nước của ông đã góp phần làm dấy lên phong trào đấu tranh cách mạng đầu thế kỉ XX.

Chân dung cụ Phan Châu Trinh

Cũng như nhiều nhà cách mạng khác, Phan Châu Trinh đã dùng ngòi bút viết nên những áng văn thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân như Tỉnh quốc hồn ca I và Tỉnh quốc hồn ca II, Tây Hồ thi tập, Xăn-tê thi tập…

Bài Đập đá ở Côn Lôn (hay còn gọi tắt là Đập đá) là bài thơ ông làm tại nơi ông bị tù khổ sai ở đảo Côn Lôn, do bị vu cho tội khởi xướng phong trào chống thuế Trung Kì (1908).

Nhờ sự can thiệp của Hội liên minh quyền ở bên Pháp mà Phan Châu Trinh được ân xá trước hạn: tháng 6 – 1910, ông đã được phóng thích, bị quản thúc ở Mĩ Tho, sau đó năm 1911 thì ông đi Pháp (theo tài liệu của GS. Huyền Lý).

Đập đá Côn Lôn

Phan Châu Trinh là con người cương trực, thẳng thắn, không sợ cường quyền, dám lớn tiếng lên án bọn quan lại sâu mọt đục khoét nhân dân, đứng hẳn về phía lí tưởng dân chủ, cách mạng, nuôi chí đổi mới nước nhà, làm cho dân giàu nước mạnh.

Thơ của Phan Châu Trinh, cũng như thơ văn của các nhà cách mạng khác, là tấc lòng của họ, khí phách của họ, chí khí anh hùng của họ. Đọc bài thơ chính là ta được bắt gặp phẩm cách con người của Phan Châu Trinh.

Bài thơ mở đầu vào câu thơ mới về tư thế của kẻ làm trai là làm chủ giang sơn, gây tiếng tăm vang dội:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Một tư thế đội trời đạp đất, một hoạt động kinh thiên động địa, “Lừng lẫy” là tính từ chỉ sự vang đội, ở đâu cũng nghe thấy tiếng vang. Hình ảnh “làm cho lở núi non” là một hình ảnh hùng vĩ, vang dội, như động đất, núi lửa, kinh thiên động địa.

Hình ảnh đập đá đã thể hiện trước khí thế và sức mạnh của con người. Đá tượng trưng cho những gì khó khăn, ngáng trở mà con người phải khắc phục.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Những từ “xách búa”, “ra tay” thật khỏe khoắn, hăng hái. Những từ “đánh tan”, “đập bể” (vỡ) lại đầy sức mạnh, mà các từ số lượng “năm bảy đống”, “mấy trăm hòn” càng tôn thêm cho sức mạnh kia.

Cả hai câu thơ đầy khí thế, tưởng chừng như sẵn sàng đập tan những gì cứng rắn, khó khăn, ngăn trở trên đời.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

“Thân sành sỏi” là thân phận người tù khổ sai, như mảnh sành, hòn sỏi, người ta giày xéo, vùi dập, nhưng không quản ngại “dạ sắt son” lạ dạ sắt như sắt, đỏ như son, thủy chung, không bao giờ thay đổi – dù nắng mưa dãi dầu vân không sờn lòng.

Hai câu thơ diễn tả sức chịu đựng gian khổ, thử thách nghe như lời tự khẳng định và như một lời thề.

Hai câu kết trở về với thực tế và tỏ rõ khí phách coi thường hiểm nguy:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước.

Hai chữ “vá trời” nhắc lại tích Nữ Oa vá trời, đồng thời gợi ra hình ảnh “những kẻ vá trời” được miêu tả trên – thì ra những kẻ đập đá, làm lở núi non trên đây là những kẻ luyện đá vá trời, những kẻ đưa vai phù nghiêng đỡ lệch cho vận mệnh đất nước, chứ không phải tù khổ sai!

Nhưng khác với nhân vật thần thoại hành động thuận buồm xuôi gió, ở đây “những kẻ vá trời” trong thực tại “khi lỡ bước” – gặp tai ách, rủi ro, nhưng họ vẫn là loại người “vá trời”, những anh hùng phi thường, khác thường. Cho nên

Gian nan chi kể việc con con!

Gian nan, tù đày chỉ là việc nhỏ bé, không đáng kể so với lí tưởng vá trời – cứu nước to lớn của họ.

Cả bài thơ toát lên lòng tự hào của sự nghiệp cứu nước chính nghĩa, ý thức rõ ràng về công việc lớn lao mà mình đang làm. Và từ tầm cao lí tưởng ấy, tác giả nhìn khó khăn trước mắt chỉ là những thử thách “con con”.

Đấy là chí khí cách mạng, là khí phách coi thường hiểm nguy của những người chí sĩ.

Bài thơ vừa thực vừa ảo, vừa tả thực, vừa mang tính chất tượng trưng, thần thoại. Ta có thể xem đây là bài thơ vịnh cảnh đập đá ở Côn Lôn và là sự kí thác niềm tin, lí tưởng, khí phách của tác giả.

Bài thơ hoàn toàn viết theo tinh thần và phong cách cổ điển. Điển tích thông dụng, dễ hiểu. Hơi văn lưu toát, mạnh mẽ, có khả năng truyền cảm mau chóng tới người đọc.

Một cái nhìn khác phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn

Phan Châu Trinh (1872 – 1926), người chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập đầu thế kỉ thứ XX. ông còn để lại nhiều thơ văn thấm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước.

Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày, viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan chi

kể việc con con!

Nhan đề bài thơ là Đập đá ở Côn Lôn nói về cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo.

Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế nỗ ra ở Trung Kì, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo.

Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc đứng giữa đất Côn Lôn, bị tù đày khổ sai là một thử thách nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vẫn lừng lẫy làm cho lở núi non.

Hai từ đứng giữa biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ làm cho lở núi non thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa.

Các vị ngữ đánh tan và đập bể vừa tả thực sức mạnh đập đá năm bảy đống và mấy trăm hòn, đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đỗ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Hai câu 5, 6 đối nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (tháng ngày) đối với gian truân thử thách (mưa nắng) lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã thể hiện hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp.

Thân sành sỏi và dạ sắt son là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên một cách hàm súc và hình tượng phẩm chất cách mạng của nhà thơ:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chí sờn dạ sắt son.

Các từ ngữ: bao quản và càng bền biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận, một quyết tâm dám thách thức với bạo lực quân thù. Tinh thần ấy, ta bắt gặp trong nhiều bài thơ trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh hơn 30 năm sau: Kiên trì và nhẫn nại.

Không chịu lùi một phân;

Vật chất tuy đau khổ,

Không nao núng tinh thần.

(Trích Bốn tháng rồi – Nhật kí trong tù)

Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ đại sự (vá trời) mà không thành (lỡ bước). Đó là những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, coi chuyện tù đày gian nan chỉ là việc con con không đáng kể, không đáng nói. Câu kết toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của nhà chí sĩ:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước

Gian nan chi kể việc con con.

Đập đá ở Côn Lôn tiêu biểu cho thơ ca viết trong nhà tù thực dân của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng.

Người xưa thường lấy thơ để giãi bày cái tâm, để nói lên cái chí. sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất và hiên ngang trước cảnh tù đày, đó là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện trong bài thơ Đập đá ở Côn Lôn này.

Cái tâm, cái chí của chí sĩ Phan Châu Trinh là bài học lớn cho chúng ta ngưỡng mộ và noi theo. Theo Amax Hà Đông

Top Bài văn Phân tích bài thơ Đập Đá ở Côn Lôn hay:

Bài 1

Phan Châu Trinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước tiêu biểu đầu thế kỷ XX. Bên cạnh hoạt động chính trị sôi nổi, ông còn để lại cho đời nhiều tác phẩm văn thơ giá trị. “Đập đá ở Côn Lôn” là một trong số những áng thơ tiêu biểu, thể hiện khí phách kiên cường, bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trước hoàn cảnh tù đày.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, giọng điệu trang nghiêm, cổ kính. Ngay từ những câu thơ đầu, người đọc đã cảm nhận được phong thái ung dung, khí phách hiên ngang của người tù:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Hình ảnh “đứng giữa đất Côn Lôn” vừa khắc họa khung cảnh thực tại của nhà tù Côn Đảo, vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho thử thách, gian nan mà người chiến sĩ phải đối mặt. Thế nhưng, trước thử thách ấy, người tù không hề nao núng, vẫn “lừng lẫy làm cho lở núi non”. Động từ mạnh “lừng lẫy”, “lở” kết hợp với cách nói khoa trương, phóng đại đã khắc họa nên hình ảnh người anh hùng với sức mạnh phi thường, tinh thần bất khuất, không chịu khuất phục trước cường quyền.

Hai câu thực tiếp tục khắc họa hình ảnh người tù trong hoàn cảnh lao động khổ sai:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Công việc đập đá nặng nhọc, vất vả được miêu tả bằng những động từ mạnh như “đánh tan”, “đập bể” cùng những số từ ước lệ “năm bảy”, “mấy trăm”. Tuy nhiên, người tù xem công việc khổ sai này là việc “con con”, không hề nao núng, chán nản. Điều đó cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn, ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.

Hai câu luận là lời khẳng định về chí làm trai, khát vọng cao đẹp của người chiến sĩ:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

“Thân sành sỏi”, “dạ sắt son” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện sự kiên trì, bền bỉ, lòng trung thành với lý tưởng cách mạng. Dù phải chịu đựng gian khổ, người tù vẫn giữ vững tinh thần, không hề nao núng. Hình ảnh đối lập “tháng ngày” – “thân sành sỏi”, “mưa nắng” – “dạ sắt son” càng làm nổi bật sức chịu đựng phi thường, ý chí kiên định của người chiến sĩ.

Hai câu kết thể hiện lý tưởng cao đẹp, hoài bão lớn lao của người chiến sĩ:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!

Hình ảnh “vá trời” mang ý nghĩa tượng trưng cho khát vọng cứu nước, cứu dân. Người chiến sĩ xem việc tù đày, khổ sai chỉ là “việc con con”, không đáng kể so với lý tưởng cao cả mà mình theo đuổi. Câu thơ cuối cùng khép lại bài thơ bằng một câu cảm thán, thể hiện sự coi thường gian khổ, khó khăn, đồng thời khẳng định ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng.

“Đập đá ở Côn Lôn” là một bài thơ hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ không chỉ khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ cách mạng với khí phách hiên ngang, ý chí kiên cường mà còn thể hiện niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cứu nước. Ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng, giàu hình ảnh, góp phần tạo nên sức lay động mạnh mẽ trong lòng người đọc.

Bài 2

Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh là một tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của người chiến sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX. Bài thơ khắc họa hình ảnh người tù cách mạng với tư thế hiên ngang, bất khuất trước mọi gian khổ, thử thách, đồng thời thể hiện khát vọng cao cả, lý tưởng sống đẹp đẽ của họ.

Mở đầu bài thơ là lời khẳng định đầy kiêu hãnh về chí làm trai của người chiến sĩ:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.

“Côn Lôn” vốn là tên một ngọn núi cao trong truyền thuyết, biểu tượng cho sự hiểm trở, khó khăn. Việc đặt chân đến “đất Côn Lôn” đã hàm ý nói lên thử thách lớn lao mà người tù phải đối mặt. Thế nhưng, giữa nơi tù đày khắc nghiệt ấy, người chiến sĩ vẫn hiên ngang, “lừng lẫy làm cho lở núi non”. Động từ mạnh “lừng lẫy”, “lở” kết hợp với cách nói khoa trương đã khắc họa nên hình ảnh người anh hùng với sức mạnh phi thường, tinh thần bất khuất.

Hình ảnh người tù hiện lên thật oai phong, lẫm liệt khi đối diện với công việc khổ sai:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Công việc đập đá nặng nhọc, gian khổ được miêu tả bằng những động từ mạnh “đánh tan”, “đập bể” và những số từ ước lệ “năm bảy”, “mấy trăm”. Thế nhưng, dường như công việc ấy chẳng thể khuất phục được ý chí của người chiến sĩ. Họ xem đó là việc “con con”, không đáng kể.

Hai câu luận thể hiện sức chịu đựng bền bỉ, ý chí kiên cường của người tù:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

“Tháng ngày”, “mưa nắng” là những gian khổ, thử thách mà người tù phải trải qua. Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, người chiến sĩ vẫn giữ vững tinh thần “thân sành sỏi”, “dạ sắt son”. Đó là sự kiên trì, bền bỉ, lòng trung thành với lý tưởng cách mạng. Cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ “sành sỏi”, “sắt son” đã góp phần thể hiện sức mạnh tinh thần, ý chí bất khuất của người chiến sĩ.

Hai câu kết bộc lộ lý tưởng cao đẹp, hoài bão lớn lao của người cách mạng:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!

“Vá trời” là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, thể hiện khát vọng cứu nước, cứu dân cao cả. Người chiến sĩ xem việc tù đày, khổ sai chỉ là “việc con con”, không đáng kể so với lý tưởng mà mình theo đuổi. Câu thơ khép lại với giọng điệu đầy khí phách, thể hiện sự coi thường gian khổ, khó khăn, đồng thời khẳng định niềm tin vào thắng lợi của cách mạng.

Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” với ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh đã khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất. Tác phẩm không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ trẻ hôm nay.

Bài 3: 

Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh là một tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần bất khuất, kiên cường của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày. Qua hình ảnh người tù lao động khổ sai, tác giả đã khắc họa nên một bức chân dung tinh thần đầy khí phách, thể hiện ý chí kiên trung, nghị lực phi thường vượt lên mọi gian khổ.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã khẳng định chí khí anh hùng của người trai đứng giữa đất trời Côn Lôn:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Hình ảnh “đứng giữa đất Côn Lôn” mang ý nghĩa biểu tượng cho sự hiên ngang, bất khuất trước mọi thử thách. Người tù không bị khuất phục bởi cảnh tù đày, mà ngược lại, vẫn hiên ngang, sừng sững như núi. Động từ mạnh “lừng lẫy”, “lở núi non” gợi tả sức mạnh phi thường, ý chí sắt đá có thể chiến thắng mọi khó khăn.

Hai câu thực tiếp tục khắc họa hình ảnh người tù trong công việc lao động khổ sai:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Công việc đập đá vốn nặng nhọc, gian khổ, nhưng qua ngòi bút của Phan Châu Trinh, nó trở nên nhẹ nhàng, “con con”. Những động từ mạnh “đánh tan”, “đập bể” kết hợp với số từ “năm bảy”, “mấy trăm” tạo nên âm hưởng hào hùng, thể hiện sức mạnh, khí thế mãnh liệt của người chiến sĩ.

Hai câu luận là lời khẳng định về tinh thần bất khuất, kiên trung của người tù:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Dù phải chịu đựng gian khổ trong thời gian dài “tháng ngày bao quản”, dù bị đày ải giữa thiên nhiên khắc nghiệt “mưa nắng”, người tù vẫn giữ vững tinh thần, ý chí “thân sành sỏi”, “dạ sắt son”.

Bài thơ khép lại với một câu kết đầy ý nghĩa:

Gian nan chi kể việc con con!

Câu thơ thể hiện thái độ coi thường khó khăn, gian khổ của người chiến sĩ cách mạng. Đối với họ, những thử thách trong cảnh tù đày chỉ là “việc con con”, không đáng kể so với lý tưởng cao cả mà họ đang theo đuổi.

Tóm lại, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ cách mạng với khí phách hiên ngang, bất khuất, ý chí kiên cường, vượt lên mọi gian khổ. Tác phẩm là một minh chứng cho sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.

Bài 4:

“Đập đá ở Côn Lôn” là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tiêu biểu của Phan Châu Trinh, thể hiện khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày. Bài thơ không chỉ là bức tranh về cảnh lao động khổ sai, mà còn là sự ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, ý chí kiên cường của người tù yêu nước.

Hình ảnh người tù hiện lên ngay từ những câu thơ đầu với tư thế hiên ngang, lẫm liệt:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.

“Côn Lôn” – hòn đảo xa xôi, nơi giam giữ những người tù chính trị – trở thành không gian thử thách ý chí con người. Nhưng giữa nơi ấy, người tù cách mạng vẫn đứng hiên ngang, “lừng lẫy” với khí thế “làm cho lở núi non”. Câu thơ toát lên tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của người chiến sĩ trước mọi khó khăn, gian khổ.

Công việc lao động khổ sai được miêu tả trong hai câu thực:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

“Đập đá” là công việc nặng nhọc, cực nhục mà chính quyền thực dân áp đặt lên người tù chính trị. Thế nhưng, bằng ngòi bút phóng khoáng, tác giả đã biến công việc ấy thành hành động đầy khí phách. Những động từ mạnh “đánh tan”, “đập bể” kết hợp với số từ “năm bảy”, “mấy trăm” gợi tả sức mạnh phi thường, tinh thần ngang tàng, không chịu khuất phục của người chiến sĩ.

Hai câu luận tiếp tục khẳng định sức mạnh tinh thần, ý chí kiên định của người tù:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Thời gian “tháng ngày” và thiên nhiên khắc nghiệt “mưa nắng” không làm nhụt chí người chiến sĩ. Ngược lại, gian khổ càng tôi luyện cho “thân sành sỏi”, “dạ sắt son”, thể hiện bản lĩnh kiên cường, tinh thần bất khuất trước mọi thử thách.

Câu thơ cuối cùng vang lên như một lời khẳng định:

Gian nan chi kể việc con con!

“Gian nan” – những khó khăn, thử thách trong cảnh tù đày – được người tù xem nhẹ, coi như “việc con con”. Câu thơ thể hiện tinh thần lạc quan, ý chí kiên định, khí phách hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng.

Với giọng điệu hào hùng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, “Đập đá ở Côn Lôn” đã khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất. Bài thơ là tiếng lòng của người chiến sĩ yêu nước, là khúc ca ngợi ca sức mạnh tinh thần, ý chí vượt lên mọi gian khổ của con người Việt Nam.

Bài 5: 

Phan Châu Trinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước tiêu biểu của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Bên cạnh hoạt động chính trị sôi nổi, ông còn để lại cho đời nhiều tác phẩm văn thơ giàu giá trị. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được sáng tác khi ông bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo, là một minh chứng cho tinh thần bất khuất, kiên trung của người chiến sĩ cách mạng.

1. Hai câu đề:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Ngay từ đầu, Phan Châu Trinh đã khẳng định chí khí anh hùng của người trai giữa đất trời. “Côn Lôn” – nơi được mệnh danh là “địa ngục trần gian” – không làm người chiến sĩ nao núng, mà càng khiến ông thêm kiên cường. Hình ảnh “lở núi non” vừa thể hiện sức mạnh phi thường, vừa là lời thách thức với gian khổ.

2. Hai câu thực:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Động từ mạnh “đánh tan”, “đập bể” kết hợp với số từ “năm bảy”, “mấy trăm” tạo nên âm hưởng hào hùng, mạnh mẽ. Công việc đập đá nặng nhọc, khổ sai bị xem nhẹ, trở thành hành động thể hiện ý chí, sức mạnh chinh phục.

3. Hai câu luận:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi” là lời khẳng định sự bền bỉ, dẻo dai trước thử thách. “Mưa nắng” tượng trưng cho gian khổ, khó khăn, càng làm nổi bật “dạ sắt son” – tấm lòng kiên trung, thủy chung với lý tưởng.

4. Hai câu kết:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!

Hình ảnh “vá trời” gợi nhắc đến những vị anh hùng trong truyền thuyết, mang tầm vóc lớn lao, phi thường. So với lý tưởng cao cả ấy, việc đập đá chỉ là “việc con con”. Câu thơ toát lên tinh thần lạc quan, coi thường gian khổ, thể hiện khí phách hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng.

Về nghệ thuật, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, kết cấu chặt chẽ, ngôn ngữ hàm súc. Hình ảnh thơ giàu sức gợi, giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ.

Tóm lại, “Đập đá ở Côn Lôn” là một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của Phan Châu Trinh nói riêng và các nhà chí sĩ yêu nước Việt Nam nói chung. Tác phẩm đã khẳng định sức mạnh của con người trong cuộc đấu tranh chống lại áp bức, bất công, đồng thời ngợi ca lý tưởng cao đẹp, khát vọng tự do, độc lập.

Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” mãi là nguồn cảm hứng cho các thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bài 6:

Phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh là một trong những nhà chí sĩ yêu nước tiêu biểu của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Bên cạnh hoạt động chính trị sôi nổi, ông còn để lại cho đời nhiều tác phẩm văn thơ giàu giá trị. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được sáng tác khi ông bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo, là một minh chứng cho tinh thần bất khuất, kiên trung của người chiến sĩ cách mạng.

Ngay từ nhan đề, tác giả đã đưa người đọc đến với không gian lao tù khắc nghiệt trên đảo Côn Lôn. Đây là nơi giam cầm những người con ưu tú của đất nước, trong đó có Phan Châu Trinh.

Mở đầu bài thơ là lời khẳng định đầy kiêu hãnh về chí làm trai:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên sừng sững giữa đất trời, với khí phách hiên ngang, lẫm liệt. Động từ mạnh “lừng lẫy”, “lở” cho thấy sức mạnh phi thường, ý chí kiên cường, không chịu khuất phục trước cường quyền bạo lực. Hai câu thơ đầu đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với tư thế ngạo nghễ, bất khuất.

Sang hai câu thực, tác giả miêu tả công việc lao động khổ sai đầy gian nan:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Công việc đập đá vốn nặng nhọc, cực khổ lại càng trở nên khắc nghiệt hơn trong hoàn cảnh tù đày. Thế nhưng, người chiến sĩ cách mạng vẫn “xách búa”, “ra tay” với khí thế mạnh mẽ, quyết liệt. Những động từ mạnh như “đánh tan”, “đập bể” kết hợp với số từ “năm bảy”, “mấy trăm” gợi tả sức mạnh dẻo dai, bền bỉ và tinh thần lạc quan của người tù cách mạng.

Hai câu luận là lời khẳng định về ý chí sắt đá, kiên trung của người chiến sĩ:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Dù phải chịu đựng gian khổ, bị đày đọa về thể xác, người chiến sĩ vẫn giữ vững tinh thần, không hề nao núng. Hình ảnh “thân sành sỏi”, “dạ sắt son” là ẩn dụ cho ý chí kiên định, bất khuất trước mọi thử thách.

Khép lại bài thơ là một câu kết đầy ý nghĩa:

Gian nan chi kể việc con con!

Đối với người chiến sĩ cách mạng, những gian khổ trong cảnh tù đày chỉ là “việc con con”. Câu thơ thể hiện tinh thần lạc quan, coi thường gian khó, đồng thời khẳng định lý tưởng cao đẹp mà người chiến sĩ đang theo đuổi.

Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, giàu hình ảnh. Tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ như đối lập, phóng đại, ẩn dụ… để khắc họa hình tượng người chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất.

Tác phẩm không chỉ là tiếng lòng của Phan Châu Trinh mà còn là lời ca ngợi chí làm trai, tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Bài thơ đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường của nhiều thế hệ người Việt Nam.

Đây chỉ là một số bài văn mẫu tham khảo, các bạn cần vận dụng kiến thức và sự sáng tạo của bản thân để viết thành bài văn của riêng mình.