Top mẫu bài văn phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang mới
Dưới đây là những văn mẫu cho bài văn phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, mỗi bài văn sẽ có một cách tiếp cận khác nhau để bạn tham khảo:
Bài văn 1:
Mở bài:
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ tài hoa của nền văn học trung đại Việt Nam. Thơ bà thường mang đậm nét buồn man mác, trầm lắng trước thiên nhiên đất nước. “Qua Đèo Ngang” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên đèo Ngang hùng vĩ mà heo hút, đồng thời thể hiện nỗi niềm hoài cổ, cô đơn của nhà thơ trước cảnh vật bao la.
Thân bài:
Bài thơ mở ra với khung cảnh đèo Ngang lúc chiều tà, gợi lên cảm giác buồn vắng:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”
Hình ảnh “bóng xế tà” kết hợp với không gian “cỏ cây chen đá, lá chen hoa” tạo nên một bức tranh thiên nhiên hoang sơ, tĩnh mịch. Cảnh vật tuy có sự sống nhưng lại thiếu vắng hơi người, gợi lên trong lòng tác giả nỗi buồn man mác.
Càng lên cao, cảnh vật càng thêm heo hút, rộng lớn:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
Từ láy “lom khom”, “lác đác” kết hợp với những hình ảnh nhỏ bé “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” càng tô đậm thêm sự hoang vắng, thưa thớt của cảnh vật. Con người hiện lên nhỏ bé, lẻ loi giữa thiên nhiên rộng lớn.
Đứng trước cảnh trời non nước bao la, lòng người khách tha hương càng thêm cô đơn:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Âm thanh “quốc quốc”, “gia gia” vang vọng trong không gian tĩnh mịch càng gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết, nỗi buồn tha thiết của nhà thơ.
Cảnh vật và tâm trạng hòa quyện vào nhau tạo nên một bức tranh buồn man mác:
“Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
Câu thơ cuối cùng thể hiện nỗi cô đơn tột cùng của tác giả. “Ta với ta” ở đây không phải là sự giao hòa giữa người với người mà là sự đối diện với chính mình, với nỗi niềm riêng tư không thể chia sẻ.
Kết bài:
“Qua Đèo Ngang” là một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật hàm súc, giàu sức biểu cảm. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa, Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên đèo Ngang hùng vĩ mà heo hút, đồng thời gửi gắm vào đó nỗi niềm hoài cổ, cô đơn trước thời thế đổi thay. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về cảnh đẹp thiên nhiên và nỗi lòng của một nữ sĩ tài hoa.
Bài văn 2:
Mở bài:
“Qua Đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tài danh của văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ là bức tranh sơn thủy hữu tình mà còn là tiếng lòng da diết của một con người nặng lòng với quê hương đất nước.
Thân bài:
Ngay từ những câu thơ đầu, bức tranh đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”
Hình ảnh “bóng xế tà” cùng với cách miêu tả “cỏ cây chen đá, lá chen hoa” gợi lên một không gian đèo Ngang vừa thơ mộng vừa hùng vĩ, hoang sơ. Thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp nguyên thủy, đầy sức sống mãnh liệt.
Giữa khung cảnh ấy, điểm xuyết vài nét sinh hoạt của con người:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
Những hình ảnh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” tuy có sự xuất hiện của con người nhưng lại càng làm nổi bật sự vắng vẻ, heo hút của cảnh vật. Con người dường như nhỏ bé, lạc lõng giữa thiên nhiên bao la.
Từ tả cảnh, tác giả chuyển sang bộc lộ tâm trạng:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Âm thanh chim “quốc quốc”, “gia gia” như vọng về từ khứ, gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết, nỗi lòng đau đáu trước cảnh nước mất nhà tan. Hai câu thơ vừa tả thực âm thanh thiên nhiên vừa khéo léo gửi gắm nỗi niềm thời thế của tác giả.
Cảnh vật và tâm trạng hòa quyện vào nhau, tạo nên một nỗi buồn man mác, cô liêu:
“Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
“Ta với ta” là sự đối diện với chính mình, với nỗi niềm riêng tư trước cảnh vật bao la. Câu thơ cuối bài như một lời kết, khép lại bức tranh đèo Ngang và nỗi lòng của nhà thơ, để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư, trăn trở.
Kết bài:
“Qua Đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng mà còn là nỗi lòng ưu tư, khắc khoải của một con người nặng lòng với non sông đất nước. Bài thơ đã khẳng định tài năng nghệ thuật của Bà Huyện Thanh Quan, đồng thời góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng văn học Việt Nam.
Bài văn 3:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm trữ tình đặc sắc, không chỉ khắc họa nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ mà còn thể hiện nỗi niềm u hoài, cô đơn của người lữ khách trước cảnh vật bao la.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh Đèo Ngang hiện lên lúc chiều tà, khoảnh khắc giao thoa giữa ngày và đêm, cũng là lúc lòng người dễ xao động nhất:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”
Hình ảnh “bóng xế tà” gợi lên cảm giác thời gian trôi đi, ngày tàn, gợi lên trong lòng người sự buồn bã, nuối tiếc. Cảnh vật Đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ nhưng cũng đầy sức sống với “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Động từ “chen” được lặp lại hai lần, kết hợp với các hình ảnh thiên nhiên tạo nên một bức tranh sinh động, đầy màu sắc, đồng thời gợi lên sự hoang dại, ít dấu chân người.
Từ cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tác giả chuyển sang miêu tả không gian rộng lớn, bao la:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
Hình ảnh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” cho thấy sự thưa thớt, nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Các từ láy “lom khom”, “lác đác” càng tô đậm thêm sự vắng vẻ, hiu quạnh của cảnh vật. Con người xuất hiện trong thơ Bà Huyện Thanh Quan nhỏ bé, lẻ loi, hòa lẫn vào thiên nhiên, càng làm tăng thêm nỗi cô đơn trong lòng tác giả.
Hai câu luận là sự đối lập giữa không gian và thời gian, qua đó thể hiện nỗi niềm của nhà thơ:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” vang vọng trong không gian tĩnh mịch càng làm tăng thêm nỗi nhớ quê hương da diết. Từ “đau lòng”, “mỏi miệng” cho thấy nỗi nhớ ấy đã trở thành nỗi đau khôn nguôi, giày vò tâm can. Nỗi nhớ quê hương, đất nước của tác giả mang đậm tính chất hoài cổ, thể hiện tình yêu nước thầm kín nhưng sâu sắc.
Hai câu kết là lời than thở, bộc lộ trực tiếp tâm trạng của nhà thơ:
“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
Trước cảnh trời non nước bao la, hùng vĩ, tác giả cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn. Cụm từ “ta với ta” gợi lên nỗi cô đơn tuyệt đối, không người chia sẻ. Nếu như “ta với ta” trong “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến là sự hòa hợp, gắn bó giữa những người bạn tri âm tri kỷ thì “ta với ta” trong bài thơ này lại là nỗi cô đơn, trống trải của người lữ khách trước thiên nhiên rộng lớn.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả cảnh ngụ tình và ngôn ngữ giàu sức gợi. Thông qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ và những âm thanh, hình ảnh giàu sức biểu cảm, Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện thành công nỗi buồn man mác, cô đơn của người lữ khách trước cảnh trời non nước bao la. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín mà sâu nặng của tác giả.
Bài văn 4:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm trữ tình đặc sắc, mang đậm dấu ấn phong cách thơ của bà. Bài thơ không chỉ khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ, hoang sơ mà còn thể hiện nỗi niềm hoài cổ, u uất của nhà thơ trước cảnh vật và thời thế.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh Đèo Ngang hiện lên lúc chiều tà, khoảnh khắc giao thoa giữa ngày và đêm, cũng là lúc lòng người dễ xao động nhất:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”
Hình ảnh “bóng xế tà” gợi lên cảm giác buồn vắng, hiu hắt. Cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá đơn sơ mà sống động: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi tả một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng vẫn tràn đầy sức sống. Cảnh vật ấy vừa hùng vĩ, vừa tĩnh lặng, khiến lòng người không khỏi chạnh lòng.
Từ khung cảnh thiên nhiên ấy, tâm trạng của nhà thơ được bộc lộ rõ nét qua những câu thơ tiếp theo:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
Hình ảnh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” cho thấy sự xuất hiện của con người nhưng lại càng tô đậm thêm sự vắng vẻ, heo hút của Đèo Ngang. Cuộc sống con người nơi đây thật nhỏ bé, đơn sơ giữa thiên nhiên rộng lớn. Nỗi buồn của nhà thơ như được nhân lên gấp bội trước cảnh vật ấy.
Hai câu luận của bài thơ là sự đối lập giữa không gian và thời gian, tạo nên nỗi niềm hoài cổ, nhớ thương da diết trong lòng nhà thơ:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” của chim cuốc, chim đa đa như vọng về từ quá khứ, gợi nhớ đến những mất mát, đau thương của đất nước. Nhà thơ đồng cảm với nỗi đau ấy, đồng thời cũng thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết.
Kết thúc bài thơ là câu thơ thể hiện sự cô đơn tột cùng của nhà thơ:
“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
Trước cảnh “trời, non, nước” bao la, nhà thơ cảm thấy mình thật nhỏ bé, lẻ loi. Cụm từ “ta với ta” vừa chỉ sự cô đơn tuyệt đối, vừa thể hiện sự giao cảm tuyệt đối giữa nhà thơ với thiên nhiên.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế, ngôn ngữ giản dị mà hàm súc đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ, hoang sơ và nỗi lòng hoài cổ, u uất của nhà thơ. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và góp phần làm nên tên tuổi của Bà Huyện Thanh Quan trong nền văn học Việt Nam.
Bài văn 5:
“Qua Đèo Ngang” là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tài hoa của nền văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ là bức tranh phong cảnh hữu tình mà còn là tiếng lòng sầu muộn của người khách li hương trước cảnh trời chiều.
Bà Huyện Thanh Quan đã lựa chọn thời điểm “bóng xế tà” để khắc họa cảnh Đèo Ngang. Đó là khoảnh khắc ngày tàn, ánh sáng nhạt dần, vạn vật chìm vào bóng tối, gợi lên cảm giác buồn vắng, cô tịch. Giữa không gian ấy, cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá tinh tế: “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng vẫn tràn đầy sức sống, thể hiện qua động từ “chen” đầy ấn tượng.
Không chỉ dừng lại ở tả cảnh, Bà Huyện Thanh Quan còn khéo léo lồng ghép vào đó những hình ảnh con người: “Lom khom dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Sự xuất hiện của con người tưởng chừng làm cho bức tranh thêm sinh động nhưng lại càng tô đậm thêm sự vắng vẻ, heo hút của Đèo Ngang. Hình ảnh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” nhỏ bé, lẻ loi giữa không gian rộng lớn càng gợi lên nỗi cô đơn trong lòng người lữ khách.
Hai câu luận là điểm nhấn tâm trạng của bài thơ: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” của chim cuốc, chim đa đa vang lên não nề, như tiếng lòng ai oán, sầu thảm. Âm thanh ấy gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết, nỗi đau mất nước và thương nhà của tác giả.
Cảm xúc cô đơn, buồn bã được đẩy lên đến đỉnh điểm trong hai câu kết: “Dừng chân đứng lại: trời, non, nước / Một mảnh tình riêng ta với ta”. Đối diện với cảnh vật bao la, hùng vĩ, nhà thơ càng cảm thấy mình nhỏ bé, lẻ loi. “Một mảnh tình riêng ta với ta” là nỗi niềm cô đơn tuyệt đối, không người chia sẻ.
“Qua Đèo Ngang” không chỉ đơn thuần là bức tranh phong cảnh mà còn là lời tâm sự của một nâme sĩ trước thời cuộc nhiễu nhương. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, Bà Huyện Thanh Quan đã để lại cho đời một tác phẩm thơ đầy xúc động.
Bài văn 6:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình trung đại. Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ mà heo hút, đồng thời thể hiện nỗi niềm cô đơn, nỗi nhớ nước thương nhà da diết của tác giả.
Ngay từ những câu thơ đầu, cảnh Đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, tĩnh mịch:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”
Thời điểm “bóng xế tà” gợi lên không khí ảm đạm, buồn bã. Hình ảnh “cỏ cây chen đá, lá chen hoa” với điệp từ “chen” tạo nên cảm giác chen chúc, xô bồ, nhưng đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt của thiên nhiên.
Giữa khung cảnh ấy, sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm vẻ vắng lặng:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”
Hình ảnh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” nhỏ bé, thưa thớt giữa thiên nhiên rộng lớn gợi lên nỗi cô đơn, lạc lõng của nhà thơ.
Nỗi nhớ thương, sầu muộn trong lòng nhà thơ được bộc lộ qua hai câu luận:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” của chim cuốc, chim đa đa vang lên ai oán, thể hiện nỗi lòng yêu nước thương nhà của tác giả. Đây cũng là một cách thể hiện tài tình của Bà Huyện Thanh Quan khi sử dụng hình ảnh âm thanh để gửi gắm tâm trạng.
Cảm xúc cô đơn đạt đến đỉnh điểm trong hai câu kết:
“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
Trước cảnh vật bao la, nhà thơ cảm thấy mình thật nhỏ bé, lẻ loi. “Một mảnh tình riêng ta với ta” là cảnh giới cô đơn tuyệt đối, không một ai chia sẻ.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm thơ mang đậm chất trữ tình, thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ và bút pháp tả cảnh ngụ tình của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ đã gửi gắm đến người đọc những cảm xúc chân thật của thi nhân nặng lòng với đất nước.
Bài văn 7:
“Qua Đèo Ngang” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tài danh của nền văn học Việt Nam. Bài thơ không chỉ là bức tranh sơn thủy hữu tình mà còn là tiếng lòng man mác buồn của người lữ khách trước cảnh trời chiều bao la.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà đượm buồn:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Hình ảnh “bóng xế tà” gợi lên cảm giác thời gian trôi nhanh, gợi nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn trong lòng người. Cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế: “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Thiên nhiên dường như hoang sơ, tĩnh lặng, thiếu vắng sự sống động.
Từ khung cảnh thiên nhiên ấy, tác giả hướng tầm mắt ra xa, bao quát không gian rộng lớn:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Hình ảnh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” cho thấy sự xuất hiện của con người nhưng lại càng tô đậm thêm sự vắng vẻ, heo hút của cảnh vật. Cuộc sống con người nơi đây lam lũ, nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn.
Cảm xúc của tác giả được đẩy lên cao trào trong hai câu luận:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” vang vọng trong không gian tĩnh mịch như tiếng lòng ai oán, sầu thương. Đó là nỗi nhớ nước, thương nhà, nỗi niềm hoài cổ của người con xa xứ.
Hai câu kết khái quát tâm trạng của nhân vật trữ tình:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cụm từ “ta với ta” thể hiện nỗi cô đơn tột cùng, không người chia sẻ. Giữa đất trời mênh mông, tác giả chỉ còn biết đối diện với chính mình, với nỗi niềm riêng tư chất chứa trong lòng.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ và nỗi lòng cô đơn, sầu muộn của người lữ khách. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bởi vẻ đẹp trữ tình, sâu lắng và giá trị nhân văn cao cả.
Bài văn 8:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm trữ tình đặc sắc, kết hợp hài hòa giữa bức tranh thiên nhiên và tâm trạng con người. Qua đó, người đọc cảm nhận được nỗi lòng buồn thương, cô đơn của nữ sĩ trước cảnh vật Đèo Ngang hùng vĩ.
Hai câu đề mở ra khung cảnh Đèo Ngang lúc chiều tà, gợi lên một không gian hoang sơ, vắng lặng:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Không gian được mở ra với điểm nhìn từ gần đến xa, từ thấp đến cao. “Bóng xế tà” là thời khắc gợi nhiều cảm xúc, thường gắn liền với nỗi buồn man mác. Cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá đơn sơ mà gợi cảm: cỏ cây, đá, lá, hoa. Tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên hoang dã, tĩnh mịch.
Hai câu thực tiếp tục khắc họa không gian Đèo Ngang với những hình ảnh con người thưa thớt:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Từ láy “lom khom”, “lác đác” càng tô đậm thêm sự vắng vẻ, heo hút. Con người xuất hiện nhưng nhỏ bé, lẻ loi giữa thiên nhiên rộng lớn. Điều này khiến cho không gian càng thêm tĩnh mịch, cô liêu.
Hai câu luận là lời bộc bạch trực tiếp tâm trạng của tác giả:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Âm thanh “quốc quốc”, “gia gia” vang lên trong không gian tĩnh mịch càng gợi nỗi buồn da diết. Đó là nỗi nhớ quê hương, đất nước, nỗi niềm hoài cổ, đau xót trước cảnh đất nước loạn lạc.
Hai câu kết khép lại bài thơ với tâm trạng cô đơn tột cùng:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cụm từ “ta với ta” thể hiện nỗi cô đơn tuyệt đối, không người chia sẻ. Giữa đất trời bao la, tác giả chỉ còn biết đối diện với chính mình, với những tâm tư, tình cảm chất chứa trong lòng.
“Qua Đèo Ngang” không chỉ là bức tranh phong cảnh hữu tình mà còn là tiếng lòng của một người con xa quê, tha thiết yêu nước, thương nhà. Bài thơ đã chạm đến những rung cảm sâu kín trong tâm hồn người đọc, khơi gợi những nỗi niềm đồng cảm về tình yêu quê hương, đất nước.
Bài văn 9:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm trữ tình đặc sắc, mang đậm dấu ấn phong cách thơ của nữ sĩ. Bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ mà còn là nỗi lòng buồn man mác, cô đơn của tác giả trước cảnh vật và thời thế.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh Đèo Ngang hiện lên trong buổi chiều tà:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Câu thơ đầu tiên như một lời tự sự, giản dị mà gợi cảm. “Bước tới” là một động từ chỉ hành động, gợi tả bước chân chậm rãi của nhà thơ khi vừa đặt chân đến Đèo Ngang. “Bóng xế tà” là thời khắc hoàng hôn buông xuống, gợi lên cảm giác buồn man mác, heo hút. Câu thơ thứ hai là bức tranh thiên nhiên đặc trưng của vùng núi rừng với “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”, vừa hoang sơ vừa có nét sống động, tươi tắn.
Từ khung cảnh thiên nhiên ấy, tác giả hướng tầm mắt ra xa, bao quát không gian rộng lớn:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Hình ảnh “tiều vài chú” và “chợ mấy nhà” gợi lên sự nhỏ bé, thưa thớt của con người giữa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Từ láy “lom khom”, “lác đác” càng tô đậm thêm sự heo hút, vắng vẻ của cảnh vật.
Tiếp đến, âm thanh của thiên nhiên vang lên càng khiến lòng người thêm cô quạnh:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” của chim cuốc, chim đa đa như những tiếng gọi tha thiết, gợi lên nỗi nhớ nước, thương nhà da diết trong lòng người lữ khách. Hai động từ “đau lòng”, “mỏi miệng” kết hợp với điệp ngữ “nhớ nước”, “thương nhà” đã thể hiện nỗi niềm thầm kín, sâu lắng của tác giả.
Hai câu kết là sự kết hợp giữa tả cảnh và tả tình, thể hiện nỗi buồn sâu thẳm của nhà thơ:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Trước cảnh “trời, non, nước” bao la, hùng vĩ, nhà thơ cảm thấy mình thật nhỏ bé, cô đơn. Cụm từ “ta với ta” vừa chỉ sự cô độc, lẻ loi vừa thể hiện cái tôi cá nhân, đậm chất trữ tình của nhà thơ.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ, hoang sơ và nỗi lòng buồn man mác, cô đơn của tác giả. Tác phẩm đã góp phần khẳng định vị trí của Bà Huyện Thanh Quan trong nền văn học Việt Nam.
Bài văn 10:
“Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh phong cảnh hữu tình mà còn là tiếng lòng thổn thức của một tâm hồn nhạy cảm trước thời thế đổi thay.
Hai câu đề mở ra không gian và thời gian của bài thơ:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
“Bóng xế tà” là thời điểm chiều muộn, khi ánh sáng nhạt dần và bóng tối bắt đầu lan tỏa, gợi lên một không khí trầm buồn, tĩnh mịch. Hình ảnh “cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là nét vẽ đặc trưng của thiên nhiên miền núi, vừa hoang sơ, vừa sinh động.
Hai câu thực tiếp tục khắc họa cảnh vật và con người nơi Đèo Ngang:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Từ láy “lom khom”, “lác đác” kết hợp với những hình ảnh nhỏ bé như “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” càng tô đậm thêm sự vắng vẻ, heo hút của cảnh vật. Con người hiện lên lẻ loi, nhỏ bé giữa không gian mênh mông của núi rừng.
Hai câu luận là điểm nhấn cảm xúc của bài thơ:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tiếng kêu “quốc quốc”, “gia gia” của chim cuốc, chim đa đa vang lên não nề, khắc khoải, như đồng điệu với nỗi lòng của tác giả. “Nhớ nước”, “thương nhà” là nỗi niềm thường trực của những người xa quê, nhưng ở đây còn mang ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là nỗi đau mất nước, nỗi niềm hoài cổ trước sự suy tàn của triều đại nhà Lê.
Hai câu kết khép lại bài thơ với nỗi cô đơn, trống vắng:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Đối diện với không gian rộng lớn “trời, non, nước”, nhà thơ càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi. “Một mảnh tình riêng ta với ta” là nỗi cô đơn tuyệt đối, không người chia sẻ.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” thành công ở nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sử dụng từ ngữ giàu sức gợi, hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa mang tính biểu tượng. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bởi vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên Đèo Ngang và nỗi niềm hoài cổ, u uất của Bà Huyện Thanh Quan.
Bài văn 11:
Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (Bài 1)
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, mang đậm nét buồn và cô đơn của người lữ khách trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Bài thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh phong cảnh mà còn là tiếng lòng của tác giả, thể hiện nỗi niềm hoài cổ và tình yêu quê hương đất nước sâu đậm.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ mà heo hút:
Bóng xế tà, trời về chiều
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá đối lập: “bóng xế tà” gợi sự tàn tạ, lụi tàn đối lập với sức sống mãnh liệt của “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Không gian mênh mông, rộng lớn được mở ra với những hình ảnh hoang sơ, tĩnh mịch, gợi lên cảm giác cô đơn, lẻ loi trong lòng người lữ khách.
Hai câu thực tiếp tục khắc họa bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang với những âm thanh hoang dã:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Từ láy “lom khom”, “lác đác” kết hợp với những động từ chỉ hoạt động “chợ”, “tiều” càng tô đậm thêm sự nhỏ bé, thưa thớt của con người giữa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Âm thanh tiếng chim cuốc, tiếng chim đa đa khắc khoải, thê lương càng làm tăng thêm nỗi buồn, sự cô đơn trong lòng tác giả.
Hai câu luận là sự chuyển biến trong cảm xúc của nhà thơ, từ tả cảnh sang tả tình:
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Hình ảnh ẩn dụ “con quốc quốc”, “cái gia gia” cùng với những động từ mạnh “đau lòng”, “mỏi miệng” đã diễn tả sâu sắc nỗi nhớ nước, thương nhà da diết của Bà Huyện Thanh Quan. Nỗi nhớ thương ấy không chỉ là nỗi niềm của riêng tác giả mà còn là nỗi lòng chung của những người con xa quê.
Câu kết bài thơ là lời than thở, bộc lộ trực tiếp tâm trạng cô đơn tột cùng của tác giả:
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Cụm từ “ta với ta” trong bài thơ mang sắc thái riêng, khác với “ta với ta” trong “Qua đèo Ngang” của Nguyễn Khuyến hay “ta với ta” trong “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh. “Ta với ta” ở đây là sự đối diện với chính mình, là nỗi cô đơn tuyệt đối giữa không gian bao la, rộng lớn.
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả cảnh ngụ tình và ngôn ngữ giàu sức gợi. Thông qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà heo hút, tác giả đã thể hiện nỗi niềm hoài cổ, tình yêu quê hương đất nước và nỗi cô đơn sâu lắng của mình. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và trở thành một trong những bài thơ Đường luật tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Bài văn 12:
“Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là một thi phẩm trữ tình đặc sắc, mang đến cho người đọc bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ, đồng thời khơi gợi nỗi niềm hoài cổ, thương nhà, nhớ nước và nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn nữ sĩ.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, tuân thủ nghiêm ngặt về niêm luật, vần điệu. Ngay từ câu đề, tác giả đã khắc họa không gian và thời gian:
Bóng xế tà, trời về chiều
Hình ảnh “bóng xế tà” gợi lên cảm giác thời gian đang trôi về cuối ngày, bao trùm lên cảnh vật là một màu sắc u buồn, ảm đạm. Không gian Đèo Ngang hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Cụm từ “chen đá”, “chen hoa” cho thấy sức sống mãnh liệt của cỏ cây, đồng thời gợi lên sự hoang dại, ít dấu chân người. Cảnh vật hiện lên vừa thơ mộng, vừa tĩnh mịch, heo hút.
Hai câu thực là những nét chấm phá điểm xuyết sự xuất hiện của con người:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Hình ảnh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” cho thấy sự xuất hiện của con người nhưng lại rất thưa thớt, nhỏ bé giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên. Âm thanh tiếng chim cuốc, chim đa đa vang lên càng làm tăng thêm nỗi buồn, sự hoang vắng.
Từ tả cảnh, tác giả chuyển sang tả tình, bộc lộ nỗi lòng mình:
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Hai câu luận này được xem là linh hồn của bài thơ, thể hiện rõ nét tâm trạng của tác giả. Nỗi nhớ nước, thương nhà được thể hiện một cách trực tiếp, da diết thông qua hình ảnh ẩn dụ “con quốc quốc”, “cái gia gia” và các từ ngữ “đau lòng”, “mỏi miệng”.
Câu kết khép lại bài thơ với nỗi cô đơn, trống vắng:
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Đứng trước cảnh “trời non nước” bao la, tác giả càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi. Cụm từ “ta với ta” ở đây là sự đối diện với chính mình, với nỗi niềm riêng tư, khắc khoải.
“Qua Đèo Ngang” không chỉ là bức tranh phong cảnh mà còn là tiếng lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sử dụng ngôn ngữ giàu sức gợi, tác giả đã thành công trong việc thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước và nỗi buồn man mác trước thời thế của mình. Bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng văn học Việt Nam và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Bạn có thể lựa chọn bài văn phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang phù hợp nhất với phong cách viết của mình hoặc dựa vào đó để xây dựng một bài văn riêng độc đáo hơn. Chúc bạn thành công!