Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan
1. Giới thiệu về bài thơ Qua Đèo Ngang
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tài danh của nền văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Bài thơ được sáng tác khi bà trên đường từ Bắc Hà vào Huế để nhận chức “Cung Trung giáo tập”.
“Qua Đèo Ngang” không chỉ đơn thuần là bức tranh tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nỗi niềm hoài cổ, u uất của nhà thơ trước thời thế đổi thay. Với bút pháp tài hoa, Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa thành công cảnh sắc Đèo Ngang lúc chiều tà, vừa hoang sơ, hùng vĩ, lại vừa tĩnh mịch, đượm buồn. Qua đó, người đọc cảm nhận được tâm trạng cô đơn, lẻ loi của tác giả, đồng thời là nỗi niềm thương nhớ quê hương đất nước.
Bài thơ mang đậm giá trị nhân văn và nghệ thuật, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học dân tộc. “Qua Đèo Ngang” đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển, được nhiều thế hệ độc giả yêu thích và trân trọng.
Bối cảnh lịch sử:
Bà Huyện Thanh Quan sống vào cuối thời nhà Lê, đầu thời nhà Nguyễn – một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Chế độ phong kiến đang trên đà suy tàn, đất nước chia cắt, chiến tranh liên miên. Bối cảnh lịch sử này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trạng của tác giả, khiến bà luôn mang trong mình nỗi niềm hoài cổ, nhớ thương một quá khứ vàng son đã qua.
Ví dụ, câu thơ “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ quê hương mà còn có thể hiểu là nỗi niềm đau xót trước tình cảnh đất nước loạn lạc, chia cắt. Hình ảnh “con quốc quốc” kêu não nề như chính tiếng lòng của tác giả, thể hiện sự xót xa, tiếc nuối cho một thời đại đã qua.
Sắc thái biểu cảm của các từ láy:
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, tuân thủ nghiêm ngặt về niêm luật, đối ý, gieo vần. Ngôn ngữ trong sáng, giản dị mà hàm súc, kết hợp với các biện pháp tu từ như đảo ngữ, từ láy, đối lập… đã góp phần tạo nên sức sống bền bỉ cho tác phẩm.
Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng rất tài tình các từ láy để miêu tả cảnh vật và tâm trạng.
“Lom khom”: Gợi hình ảnh nhỏ bé, thấp thoáng, lẩn khuất của những người tiều phu dưới núi, càng làm tăng thêm vẻ hoang vắng của không gian.
“Lác đác”: Diễn tả sự thưa thớt, ít ỏi của những ngôi nhà bên sông, tạo cảm giác trống trải, hiu quạnh.
Bên cạnh đó, các từ láy tượng thanh “quốc quốc”, “gia gia” không chỉ gợi tả âm thanh mà còn thể hiện nỗi lòng khắc khoải, da diết của tác giả. Tiếng kêu của chim cuốc, chim đa đa như hòa vào nỗi lòng của người lữ khách, tạo nên một không khí buồn bã, thê lương.
Sự giao thoa giữa tình và cảnh:
Trong bài thơ, cảnh và tình hòa quyện vào nhau, tạo nên một bức tranh thống nhất, hoàn chỉnh. Cảnh Đèo Ngang hoang sơ, tĩnh mịch chính là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, buồn bã của tác giả.
Ví dụ, câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” không chỉ đơn thuần là miêu tả hành động dừng chân của tác giả mà còn thể hiện sự bế tắc, chơ vơ giữa không gian rộng lớn. Hình ảnh “trời, non, nước” bao la, hùng vĩ càng làm nổi bật sự nhỏ bé, lẻ loi của con người.
Giá trị nhân văn của tác phẩm:
“Qua Đèo Ngang” không chỉ là tiếng lòng của riêng Bà Huyện Thanh Quan mà còn là tiếng lòng chung của những người con xa quê, tha thiết yêu quê hương, đất nước. Bài thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng về tình yêu quê hương, đất nước, về nỗi nhớ nhà, nhớ người thân.
Tác phẩm còn có giá trị tố cáo hiện thực xã hội đương thời. Nỗi buồn của tác giả không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà còn là nỗi buồn chung của cả một dân tộc trước tình cảnh đất nước loạn lạc, chia cắt.
Với những phân tích chi tiết trên, ta có thể thấy “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật và giá trị nhân văn. Bài thơ đã vượt qua giới hạn của thời gian và không gian để đến với người đọc hôm nay, khơi gợi trong lòng mỗi người những tình cảm cao đẹp về quê hương, đất nước.
2. Bài thơ Đèo Ngang
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
3. Cảm nhận về bài thơ Qua Đèo Ngang
“Qua Đèo Ngang” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam. Bài thơ không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn lay động lòng người bởi những cảm xúc chân thành, sâu lắng của tác giả. Đọc bài thơ, ta vừa được thưởng thức bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, vừa cảm nhận được nỗi lòng của một người con xa quê, một nữ sĩ nặng lòng với đất nước.
Bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang:
Ngay từ những câu thơ đầu, Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ mà đượm buồn:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”
Cảnh vật hiện lên với những nét chấm phá đơn sơ mà gợi cảm: “bóng xế tà”, “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Thiên nhiên nơi đây vừa hoang sơ, hùng vĩ, lại vừa tĩnh lặng, đượm buồn. Cái “chen” của cỏ cây, lá hoa không chỉ gợi sự sống mãnh liệt mà còn ẩn chứa nét hoang vắng, quạnh hiu. Thời gian chiều tà càng tô đậm thêm vẻ hiu hắt cho cảnh vật.
Không gian được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu qua “lom khom dưới núi tiều vài chú”, “lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Hình ảnh con người nhỏ bé, thưa thớt giữa khung cảnh rộng lớn càng làm nổi bật lên sự hoang vắng, tĩnh mịch của Đèo Ngang. Âm thanh “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” càng làm tăng thêm cảm giác cô liêu, tĩnh mịch.
Nỗi lòng của người lữ khách:
Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, tâm trạng của tác giả được thể hiện rõ nét qua những câu thơ:
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.”
Từ láy “quốc quốc”, “gia gia” gợi lên tiếng kêu khắc khoải, da diết. Nỗi nhớ nước, thương nhà đau đáu, trĩu nặng trong lòng người lữ khách. Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời non nước” không chỉ là hành động dừng chân mà còn là sự ngưng đọng của tâm trạng. Trước cảnh “trời non nước” bao la, nỗi niềm cô đơn càng thêm sâu lắng.
Câu thơ cuối “Một mảnh tình riêng ta với ta” là sự cô đọng, kết tinh của tất cả những tâm trạng trước đó. “Một mảnh tình riêng” là nỗi cô đơn, lẻ loi, là nỗi nhớ nhà, thương nước khôn nguôi. Cụm từ “ta với ta” đối lập với “ta với ta” trong “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Nếu ở bài thơ của Nguyễn Khuyến, “ta với ta” là sự hòa hợp, gắn bó giữa những người bạn tri âm tri kỉ thì ở đây, “ta với ta” lại là nỗi cô đơn tuyệt đối.
Giá trị nghệ thuật:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” thành công nhờ sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và tình. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu hình ảnh, giọng điệu trầm buồn, nhiều từ láy gợi cảm,… để khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên Đèo Ngang hùng vĩ mà đượm buồn, đồng thời thể hiện nỗi niềm cô đơn, nỗi nhớ nước thương nhà da diết của người lữ khách.
Qua Đèo Ngang là một bài thơ hay, đọng lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị nghệ thuật đặc sắc, xứng đáng là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Ngày nay Đèo Ngang – Cổng trời Hoành Sơn Quan đã trở thành địa điểm du lịch Quảng Bình hấp dẫn du khách gần xa. Tuyến đường Bắc Nam đã thông thoáng nhờ có hầm Đèo Ngang, nhưng với những tâm hồn yêu thiên nhiên và thi ca, cung đường đèo vẫn giữ nguyên sức hút. Vượt qua những khúc quanh co, du khách như lạc vào bức tranh sơn thủy hữu tình, nơi biển trời giao hòa, núi non trùng điệp. Cảnh sắc ấy đã đi vào thơ ca, và chính những vần thơ bất hủ ấy lại càng thôi thúc du khách muốn một lần dừng chân, tận hưởng vẻ đẹp Đèo Ngang và lắng đọng tâm hồn mình.