Miếu Bà Phi Yến – An Sơn Miếu
Miếu Bà Phi Yến hay còn gọi An Sơn Miếu là một trong số ít di sản văn hóa dân gian ở Côn Đảo, xây dựng vào năm 1785 để tôn vinh Bà Phi Yến, vợ của Chúa Nguyễn Ánh hay còn gọi là Vua Gia Long.
Với người dân trên đảo, An Sơn Miếu rất linh thiêng và gắn liền với câu chuyện bi thương của một người phụ nữ tài năng, đức độ và yêu nước. Sau khi bà mất, người dân trên đảo thương tiếc bà và lập miếu thờ.
Năm 1861, sau khi thực dân Pháp chiếm đảo, chúng quyết định di dời toàn bộ dân cư vào đất liền để xây dựng nhà tù nên ngôi chùa dần hoang tàn. Năm 1958, nhân dân trên đảo đã xây dựng lại ngôi miếu khang trang trên nền ngôi miếu cũ và được thờ tự cho đến nay.
Hàng năm vào ngày 18 tháng 10 âm lịch sẽ có lễ hội do phòng văn hóa tổ chức và được người dân trên đảo chuẩn bị rất long trọng.
Tổng diện tích của ngôi đền là 4200 mét vuông, tổng thể công trình được xây dựng theo hình chữ Nhất. Ngôi đền nhỏ này được xây dựng vào năm 1785 để thờ Bà Phi Yến. Tuy nhiên, vào năm 1958, nơi này đã được tu sửa nhiều lần cho đến ngày nay.
Bên ngoài đền có một tấm bia đá, ghi lại truyền thuyết về Bà Phi Yến và Hoàng tử Cải, bước vào bên trong là không gian sân vườn rộng rãi với nhiều cây xanh bao phủ toàn bộ khu vườn. Đặc biệt có rất nhiều cây thị hàng trăm năm tuổi.
Lối vào đền là khoảng sân lát gạch xi măng rộng, tiến một cấp sẽ đến hồ nước hình tròn bằng xi măng, bên trong hồ có hòn non bộ là biểu tượng của hang đá nơi Bà Phi Yến bị Nguyễn Ánh giam cầm, tiếp theo là một ban thờ thiên kết nối âm dương, trời đất và một cột cờ tổ quốc đối xứng với cờ thần hay còn gọi là cờ ngũ sắc theo thuyết Âm dương Ngũ hành.
Khuôn viên đền có nhiều ghế đá để du khách nghỉ chân và một bộ lư hương lớn chính giữa sân để du khách dâng hương cầu an mỗi khi đến thăm. Kiến trúc đền cơ bản có mái ngói với 3 cổng ra vào, trên bài tựa có 3 chữ Hán, nghĩa An Sơn Miếu.
Bên trong chính điện có tượng Bà Phi Yến. Ngoài ra, đền còn thờ đô đốc Ngọc Lân và nhiều vị thần khác. Bên trái đề 4 chữ “Quốc thái dân an“, bên phải đề “Phong điêu vũ thuận“. Ở bên phải của điện thờ còn có một bộ chuông sẽ vang lên khi ai đó khấn vái.
Truyền thuyết ly kỳ về bà Phi Yến và hoàng tử Cải
Người dân Côn Đảo truyền tai nhau rằng vào cuối mùa thu năm 1783, Nguyễn Ánh trên đường chạy trốn ra Côn Đảo để trốn quân Tây Sơn. Để tìm kiếm sự giúp đỡ từ người Pháp, Nguyễn Ánh dự định đưa con trai của mình đi với linh mục Bá Đa Lộc đến Pháp làm con tin. Bà Phi Yến là phi tần ra sức phản đối vì đây là hành động cõng rắn cắn gà nhà.
Nguyễn Ánh tức giận, cho rằng cô đã thông đồng với quân Tây Sơn và nhốt cô vào hang động trên một hoang đảo. Trong hang chỉ có bánh nếp và một hũ nước, đủ ăn nửa tháng. Con vật mà Bà Phi Yến đã nuôi từ nhỏ, một con vượn trắng, cũng theo Bà đến đảo, con vật này rất thông minh và trung thành. Cái tên Hòn Bà được ra đời từ câu chuyện này, chữ Bà có ý nhắc đến Bà Phi Yến.
Nghe tin quân Tây Sơn sắp truy kích, Nguyễn Ánh hoảng sợ bỏ quân chạy về đảo Phú Quốc. Hoàng tử không thấy mẹ, mới biết mẹ bị giam cầm, khóc lóc van xin vua cha cho mẹ đi cùng, nếu không sẽ sống chết với Bà.
Nguyễn Ánh ném đứa trẻ vô tội xuống biển, và ngay lập tức con hổ đen, con vật do hoàng tử nuôi luôn đi theo hoàng tử đã nhảy xuống cứu. Nhưng con hổ đen không thể cứu được hoàng tử. Sau khi lội vào bờ, tiếp tục nhìn về phía biển cho đến khi thủy triều rút và nhìn thấy thi hài hoàng tử nằm trên rạn san hô.
Trải nghiệm bài Thứ Phi Phi Yến qua giọng ca Lệ Thủy – Vọng Cổ Trước 1975
Sau đó, nó đưa thi hài hoàng tử lên, đào một lỗ chôn ở giữa rừng gần bãi Đầm Trầu. Dân làng Cỏ Ống lập miếu trước lăng mộ thờ hoàng tử, gọi là miếu Cậu. Đêm xuống con hổ đen vào rừng kiếm ăn, ban ngày trở về nằm xuống bên mộ Hoàng tử và khóc lóc thảm thiết.
Một đêm, hổ đen gặp vượn trắng, vượn trắng dẫn đường đến gặp Bà Phi Yến. Hổ đen đẩy tảng đá lớn chặn lối vào hang động, đưa Bà ra ngoài, cõng bà và vượn lên đèo, vượt qua con lạch, đến Lăng hoàng tử.
Dân làng kéo đến báo tin dữ cho bà, rồi xây một ngôi nhà khá khang trang gần lăng mộ Thái tử, để bà ở và chăm sóc phần mộ cho con trai mình. Tên thường gọi của Bà Phi Yến là Răm, Hoàng tử tự xưng là Cải nên người đương thời đã sáng tạo ra câu hát “Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu đời đắng cay”.
Một ngày nọ, có một lễ hội ăn chay lớn ở làng An Hải. Để lễ cầu phúc thêm phần long trọng, Hội đồng làng An Hải cử một bô lão làm đại diện, dân làng bốn phương về Làng Cỏ Ống cung thỉnh Bà Phi Yến. Khi đến nơi, Bà được mời nghỉ ngơi trong một căn phòng đặc biệt.
Khi đó, Bà Phi Yến mới 25 tuổi, xinh đẹp tươi tắn, hấp dẫn khiến anh hàng thịt tên là Biện Thi sống ở làng An Hải không khỏi xuýt xoa và nổi lòng tà dục. Đêm đó, hắn ta giả vờ say và lẻn vào phòng Bà. Ngay sau khi hắn chạm vào cánh tay Bà, Bà tỉnh dậy và hét lên, Biện Thi ngay lập tức bị dân làng phát hiện.
Theo các giá trị đạo đức xưa, chỉ cần nắm tay và sờ nhầm quần áo đã bị coi là vi phạm đạo đức. Bà Phi Yến cảm thấy rất nhục nhã. Trong cơn tức giận, cô đã tự tay chặt đứt cánh tay bẩn thỉu và nhờ bà lão mang đi chôn.
Nhưng trong lòng vẫn có cảm giác tội lỗi, vào đêm mọi người không để ý, Bà đã tự tử để giữ danh tiết. Dân làng Cỏ Ống vô cùng tức giận khi biết tin, họ cầm gậy gộc giáo mác đến làng An Hải.
Do sự sắp xếp khôn ngoan của các quan, dân làng Cỏ Ống đã đồng ý thỏa hiệp: “Làng An Hải phải làm heo tạ lỗi và nộp tên Biện Thi cho làng Cỏ Ống được toàn quyền định đoạt.”
Số phận đã sắp đặt cho Bà nằm xuống làng An Hải, vì vậy theo ý trời, dân làng Cỏ Ống đã để thi hài Bà lại cho dân làng An Hải lo tang lễ và lập miếu thờ bà, Miếu Bà Phi Yến hay An Sơn Miếu có từ đó cho đến ngày nay được người dân Côn Đảo tôn sùng, thường xuyên thăm viếng dâng hương cầu bình an, tài lộc, tình duyên gia đạo.
Từ đó đến nay, nhân dân Côn Đảo hàng năm tổ chức lễ giỗ Bà Phi Yến vào ngày 18 tháng 10 âm lịch.